Tokyo Hoàng Đạo Án - Chương 03

Tác giả: Soji Shimada

Không một ai biết nơi ta tạo ra Azoth, nhưng ta phải đề phòng lũ chó. Chúng có thể nghe được tiếng gào thét của người hấp hối. Con người không thể nghe được âm thanh có tần số vượt quá 20.000 lần mỗi giây, nhưng chó thì có thể. Trong bể cá cảnh ở triển lãm của Milhaud, ta đã nhìn thấy một quý bà ôm con chó sục Yorkshire trên tay. Tai nó rung lên khi nghe thấy những âm thanh của cái ૮ɦếƭ.
Nơi để sáng tạo và lắp ráp Azoth sẽ được xác định bằng phương pháp toán học. Tất nhiên ta có thể làm việc này trong xưởng vẽ của mình nhưng việc cả sáu người phụ nữ đột nhiên biến mất sẽ rất đáng ngờ. Xưởng vẽ rõ ràng sẽ bị điều tra. Ngay cả khi cảnh sát không nghi ngờ ta thì Masako cũng sẽ mò đến xưởng vẽ. Do đó, ta phải tìm một nơi khác để làm việc này, một nơi có thể lưu giữ sáng tạo của ta. Cho nên ta đã mua một ngôi nhà ở quê với giá rất hời. Tuy nhiên, vì tài liệu này có thể bị phát hiện trước khi ta ૮ɦếƭ, nên ta không dám đề cập đến vị trí chính xác. Ta chỉ nói đó là một nơi thuộc tỉnh Niigata.
Ta sẽ để bản ghi chép này cạnh Azoth. Sau khi sáng tạo ra Azoth, những phần cơ thể không được sử dụng của các cô gái cần được chuyển tới những địa điểm khác nhau có liên quan đến cung hoàng đạo tương ứng của từng người. Lý tưởng nhất là nơi có mỏ kim loại tương ứng. Ví dụ, vàng liên quan đến Sư Tử, sắt liên quan đến cung Bạch Dương và Thiên Yết, bạc liên quan đến cung Cự Giải, thiếc liên quan đến cung Nhân Mã và Song Ngư. Vì vậy, những phần cơ thể còn lại sẽ được phân bố như sau:
- Tokiko (Bạch Dương) ở nơi khai thác sắt
- Yukiko (Cự Giải) ở nơi khai thác bạc
- Reiko (Xử Nữ) ở nơi khai thác thủy ngân
- Akiko (Thiên Yết) ở nơi khai thác sắt
- Nobuyo (Nhân Mã) ở nơi khai thác thiếc
- Tomoko (Bảo Bình) ở nơi khai thác chì
Một khi các thi thể được hoàn trả về đúng nơi của chúng, Azoth sẽ hiện ra với sức mạnh tối cao. Và kiệt tác hoàn thành!
Ta sáng tạo ra Azoth không phải chỉ cho riêng mình, mà còn vì lợi ích của Đế quốc Nhật Bản. Đất nước đã đi theo con đường sai lầm, lịch sử của chúng ta bị hoen ố bởi những sự kiện bi thảm. Cuối cùng nước Nhật bị tàn phá. Chúng ta phải nhận lấy trách nhiệm mà tổ tiên giao phó. Ngày ấy đang đến gần. Azoth sẽ chỉ dẫn cho chúng ta. Azoth sẽ cứu dân tộc ta.
Vào thời Cổ đại, nữ thần Himiko trị vì đất nước chúng ta. Vương quốc Yamatai dưới thời bà phát triển thật rực rỡ. Về mặt chiêm tinh học, các đảo của Nhật Bản ứng với chòm sao Thiên Bình, nơi mọi người có xu hướng thích các cuộc tụ họp xã hội. Người Nhật tin vào thần thánh và thích tiệc tùng, lễ hội. Tuy nhiên, khi quân Triều Tiên đô hộ Nhật Bản và Khổng giáo được du nhập từ Trung Quốc thì người dân đã thay đổi. Linh hồn của họ bị mất tự do và họ tự chế ngự bản thân mình. Phật giáo được du nhập từ Trung Quốc nhưng tôn giáo này không thực sự cắm rễ sâu nơi đây. Những gì người Nhật tiếp thu không phải là Phật giáo thực sự mà là Phật giáo đã bị người Trung Quốc cải biên sai. Chúng ta nên trở lại với bản sắc nguyên thủy của đất nước này - một đế chế do một nữ thần cai trị.
Vì lý do đó, Azoth phải được đặt ở trung tâm của Nhật Bản, để nàng có thể đảm nhiệm sứ mệnh của nữ thần Himiko. Ngày nay, thời gian chuẩn của chúng ta được xác định bằng Đài quan sát Akashi ở kinh độ 135o Đông nhưng ta nghĩ thế là sai. Trung tâm thực sự của đế chế Nhật Bản là kinh độ 138o48’ Đông. Quần đảo Nhật Bản có hình cánh cung rất ấn tượng, nhưng không dễ gì xác định biên giới phía bắc và phía nam của đất nước. Theo quan điểm của ta, thích hợp hơn cả nếu lấy biên giới đông bắc là quần đảo Chishima hoặc Kurils, tọa lạc kế bên bán đảo Kamchatka. Biên giới phía nam phải là Iwo Jima, nằm ở phía nam quần đảo Ogasawara. Mặc dù đảo Hateruma, thuộc quần đảo Sakishima ở Okinawa, nằm ở vĩ độ thấp hơn nhưng Iwo Jima phù hợp hơn vì nó có hình dạng của đầu mũi tên.
Địa lý tự nhiên của Nhật Bản có vẻ đẹp đặc trưng. Điều đó thuyết phục ta rằng hành tinh cai trị đất nước là Kim Tinh, thuộc cung Thiên Bình. Không một nơi nào trên trái đất này có được vẻ đẹp địa lý tuyệt vời đến vậy. Quần đảo Nhật Bản khiến ta liên tưởng đến một nhân vật nữ có hình thể cân đối. Rồi còn có khu vực núi lửa Phú Sĩ giống như một mũi tên đã lên dây cung. Iwo Jima, như ta đã nói, trông giống đầu mũi tên. Một ngày nào đó, người Nhật sẽ nhận ra rằng hòn đảo này có đóng góp thế nào cho lịch sử đất nước. Mũi tên đã từng được bắn đi. Nó bay qua Australia và Mũi Sừng (Cape Horn), bắn trúng Brazil, nơi có số dân di cư Nhật Bản cư trú đông nhất thế giới.
Ta có thể xác định chính xác vị trí điểm cực đông bắc của quần đảo Nhật Bản. Phần lớn quần đảo Kuril được xem như là một phần của Nhật Bản. Nhiều người cho rằng các đảo Paramushir và Onekotan thuộc về Nhật Bản, nhưng ta nghĩ nên loại bỏ chúng. Chúng quá lớn và gần với bán đảo Kamchatka, chúng thuộc về đại lục thì đúng hơn. Trung tâm của Kuril chính là nơi tọa lạc Rasshua và Ketoi, nhưng ta tin rằng Nhật Bản có thể còn vươn xa hơn nữa và lãnh thổ của nó bao gồm cả Kharimkotan và các đảo phía nam Kuril.
Những hòn đảo nhỏ này nằm rải rác ở tít phía bắc và nam, đan xe với các đảo chính của Nhật Bản làm cho đất nước trông như một cánh cung khổng lồ treo vào lục địa với những dải tua rua. Điểm cực đông của đảo Kharimkotan ở kinh độ 154o36’ Đông và điểm cực bắc ở vĩ độ 49o11’ Bắc.
Tiếp theo là điểm trung tâm của trục đông bắc-tây nam. Điểm cực tây của Nhật Bản là đảo Yonaguni, nằm ở kinh độ 123o Đông. Điểm cực nam của Nhật Bản, ta nhắc lại, nên là Iwo Jima. Điểm cực nam của đảo Hateruma, nằm ở đông nam Yonaguni, ở kinh độ 24o3’ Bắc trong khi điểm cực nam của Iwo Jima nằm ở vĩ độ 24o43’ Bắc. Tuy nhiên, trung điểm giữa đảo Kharimkotan và Yonaguni lại nằm ở kinh độ 138o48’ Bắc. Đường này chính là trục trung tâm của Nhật Bản, bắt đầu từ mép bán đảo Izu và chạy lên tới tận đồng bằng Niigata, nơi lãnh thổ kéo dài về phía bắc. Một phần của núi Phú Sĩ cũng nằm trên con đường trục này. Do đó, đường trục này phải giữ một vai trò quan trọng trong lịch sử Nhật Bản. Ta tiên đoán rằng nó vẫn sẽ tiếp tục giữ vai trò đó.
Đường kinh tuyến 138o43’ Đông có rất nhiều ý nghĩa. Núi Yahiko ở cực bắc của đường này. Đó là nơi có Đền Yahiko. Đây chính là chìa khóa của huyền thoại. Tương truyền nơi đây có một hòn đá thiêng. Núi Yahiko chính là rốn của Nhật Bản với sức mạnh huyền bí, trung tâm thực sự của cả nước. Không ai có thể bỏ qua thánh địa này; tương lai của Nhật Bản phụ thuộc vào nó. Ta muốn đi thăm nơi ấy trước khi ૮ɦếƭ. Ta phải làm việc đó, và ta sẽ làm! Nếu như ta ૮ɦếƭ mà chưa làm được thì ta muốn các con ta đến thăm Yahiko thay cho ta. Đỉnh 4, 6 và 3 là những con số nằm trên đường trung tuyến của Nhật Bản. Ba số này cộng lại bằng 13, là con số ưa thích của quỷ dữ. Azoth sẽ được đặt ở trung tâm của 13…
Cảnh 1: Dấu chân trên tuyết
“Cái quái gì thế này?” Kiyoshi kêu lên, gập quyển sách lại, quẳng cho tôi rồi nằm dài xuống ghế.
“Anh đã đọc hết chưa?” Tôi hỏi.
“Chậc, ít nhất cũng là chuyện của Heikichi Umezawa.”
“Thế anh nghĩ sao?” tôi hỏi tiếp.
Dạo này Kiyoshi thường có tâm trạng chán nản. Im lặng khá lâu, cậu mới đáp: “Ờ, chẳng khác gì buộc phải đọc cuốn Niên giám điện thoại và Những trang vàng cả.”
“Nhưng quan điểm chiêm tinh học của ông ta thì sao? Có gì bất thường không?”
Kiyoshi là một chiêm tinh gia nên có vẻ phấn khích với câu hỏi. “Có một vài phần Heikichi diễn giải theo ý kiến chủ quan,” cậu nói. “Anh biết đó, trong chiêm tinh học thì Cung Mọc có ảnh hưởng đến các bộ phận cơ thể hơn là Cung Mặt Trời, cho nên tôi thấy rằng cách diễn giải của ông ta hơi chung chung. Tuy nhiên, kiến thức của Heikichi rất uyên thâm. Tôi không nghĩ rằng có chỗ nào bị hiểu lầm quá đáng.”
“Thế còn ý kiến của Heikichi về thuật giả kim thì sao?”
“Sai lầm hoàn toàn . Kiểu tư duy đó phổ biến ở thế hệ trước. Y như môn bóng chày. Ban đầu khi mới xuất hiện tại Nhật Bản vào những năm 1880, người ta nghĩ đó là cách để rèn luyện tinh thần theo phong cách Mỹ, nhưng họ đã đi quá xa. Vấn đề trở nên nghiêm trọng đến nỗi nếu như đánh hụt trái bóng, họ sẵn sàng mổ bụng tự sát theo nghi thức harakiri của tinh thần Võ sĩ đạo. Heikichi Umezawa cũng giống như vậy, nhưng tôi tin rằng ông ta vẫn hiểu biết hơn những người có suy nghĩ rằng thuật giả kim là phương thức biến chì thành vàng.”
Tôi là Kazumi Ishioka và là tín đồ cuồng nhiệt của truyện trinh thám, thậm chí gọi tôi là con nghiện của thể loại này cũng không sai. Nếu trong một tuần mà không đọc cuốn truyện trinh thám nào là tôi sẽ lên cơn nghiện ngay lập tức, tôi sẽ đi vật vờ như thể bị ௱ôЛƓ du và choàng tỉnh tại một hiệu sách, lục tìm bằng được một cuốn tiểu thuyết trinh thám. Tôi đã đọc hầu hết các truyện trinh thám, ly kỳ trong đó có truyện về vương quốc cổ đại Yamatai gây tranh cãi, truyện về tên ςướק ngân hàng đã đánh cắp 300 triệu yên vẫn chưa bị bắt. Không phải tôi muốn khám phá tri thức hay gì, chẳng qua là khoái giải trí bằng những câu truyện tầm phào mà thôi. Trong tất cả các truyện trinh thám mà tôi đã đọc, Tokyo hoàng đạo án rõ ràng là câu chuyện hấp dẫn nhất. Một loạt án mạng đã xảy ra ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, đúng thời điểm diễn ra cuộc đảo chính quân sự bất thành vào ngày 26 tháng Hai năm 1936 vẫn được biết đến với tên gọi “Sự kiện 26-2[1]”.
[1] Đảo chính do một nhóm sĩ quan lục quân trẻ tuổi phái bảo hoàng nhằm lật đổ chính phủ để lập một nội các mới. Nhóm sĩ quan này dẫn khoảng 1.400 người phần lớn là tân binh đi vây các dinh thự và *** năm Bộ trưởng phái dân sự, nhưng lại để Thủ tướng thoát được. Tuy họ ủng hộ Thiên hoàng, đòi ông ra thân chính, song Thiên hoàng Hirohito lại không chấp nhận phiến loạn. Đảo chính thất bại và các sĩ quan cầm đầu bị hành quyết ngay giữa Tokyo.
Câu chuyện dị thường, khó hiểu, kỳ quặc và không thể tin nổi này nhanh chóng lan ra khắp đất nước như một vết dầu loang. Trong bốn mươi năm qua, biết bao trí thức và thám tử nghiệp dư đã cố gắng giải mã câu chuyện, nhưng đến hôm nay, vụ án vẫn chưa được làm sáng tỏ.
Tư liện về vụ án cùng chúc thư của Heikichi Umezawa đã được biên soạn thành một cuốn sách và xuất bản trong khoảng thời gian tôi chào đời, ngay lập tức trở thành cuốn sách ăn khách nhất. Nó gây ấn tượng vì đã nhấn mạnh vào khía cạnh thất bại trong việc phá giải các vụ án ***, tượng trưng cho bóng tối bao quanh Nhật Bản thời kỳ tiền chiến.
Điều khủng khiếp và bí ẩn nhất về vụ án này là sáu thiếu nữ đã bị giết đúng như Heikichi mô tả. Hơn nữa, cả sáu tử thi đều bị mất một phần cơ thể khác nhau và được chôn ở sáu nơi riêng biệt cùng với những nguyên tố kim loại.
Điều kỳ quặc là Heikichi đã bị giết trước khi xảy ra cái ૮ɦếƭ của các con gái và cháu gái ông ta. Heikichi có nhắc đến tên của một vài người, nhưng họ đều có chứng cứ ngoại phạm. Tất nhiên, tất cả những chứng cứ ấy đã được xác minh kỹ càng để giải tỏa mọi nghi ngờ. Bản thân Heikichi là người có động cơ lớn nhất, nhưng ông ta đã ૮ɦếƭ trước khi xảy ra những vụ ***, nên đương nhiên ông ta không thuộc diện nghi vấn.
Do đó, theo lẽ thường thì kẻ sát nhân không phải là người trong gia đình. Công chúng nêu ra hàng trăm giả thiết nhưng chỉ khiến mọi chuyện thêm rối tung. Mọi động cơ gây án khả dĩ đều đã được giả định nhưng tất cả đều rơi vào ngõ cụt.
Từ cuối những năm 1970, vụ án trở thành cảm hứng cho nhiểu cuốn sách với nhiều lý giải khác nhau nhưng hầu hết đều khá sơ sài và cấu tứ rất tệ, vậy mà chúng vẫn bán chạy. Vì thế đã có thêm rất nhiều cuốn sách kiểu này được xuất bản, chẳng khác gì một cơn sốt vàng.
Tôi còn nhớ có một vài ý tưởng lố bịch hơn nữa đã được đưa ra: Giám đốc Cảnh sát thành phố có liên can; Thủ tướng cũng nhúng tay vào; Đức Quốc xã muốn dùng các thiếu nữ cho những thí nghiệm sinh học; và - ý tưởng hài hước nhất theo quan điểm của tôi - thổ dân ăn thịt người New Guinea đã ăn những phần cơ thể đó. Các giả thiết này chẳng khác gì một trò đùa dở ẹc nhưng độc giả lại thấy thích thú. Khi một tạp chí ẩm thực cho đăng bài về nghệ thuật ăn thịt người thì mọi chuyện rõ ràng vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Ý tưởng điên rồ cuối cùng là, người ngoài hành tinh là thủ phạm của vụ án.
Với tôi, tất cả những ý tưởng trên đều thiếu mất hai điểm then chốt: làm sao một kẻ ngoài cuộc đọc được những ghi chép của Heikichi và vì lý do gì người đó lại muốn thực hiện kế hoạch của ông ta?
Cảnh sát chú ý đến chi tiết người con gái lớn nhất, Kazue, có những mối liên hệ với Trung Quốc và nói không chừng là một gián điệp. Vì vậy xảy ra suy đoán rằng có thể một cơ quan quân sự bí mật đã ám sát những cô gái nhà Umezawa.
Tôi thì dè dặt đưa ra giả thiết là có ai đó đã tìm thấy những ghi chép của Heikichi và sử dụng nó để che đậy tội ác. Hắn có quan hệ tình ái với một trong các cô gái, nhưng bị cô ta bỏ nên hắn trả thù. Nếu như hắn giết tất cả sáu cô gái, thì động cơ của hắn sẽ không bị phát hiện. Tuy nhiên, giả thiết này không hoàn toàn khớp với thực tế khi cơ quan điều tra kết luận rằng các thiếu nữ nhà Umezawa bị mẹ canh chừng rất nghiêm ngặt và chưa có bất kỳ người bạn trai nào. Hẹn hò mà không được phép của bố mẹ là điều không thể chấp nhận được vào những năm 1930. Và nếu giả sử một trong các cô gái này yêu đương và phụ bạc người tình thật, thì chắc chắn chàng trai phải tìm cách nào đó đơn giản hơn để giết kẻ phụ tình, chưa kể hung thủ chẳng có lý do gì để tiếp cận được những ghi chép của Heikichi.
Tất cả đều vô nghĩa. Cuối cùng tôi không suy ngẫm về những án mạng kỳ quặc này nữa.
Mùa xuân năm 1979, dù là một anh chàng đầy nhiệt huyết, Kiyoshi Mitarai cũng cảm thấy nản lòng. Cậu có cảm giác mình không đạt được phong độ đỉnh cao để giải mã bí ẩn của vụ án. Nghệ sĩ thường có cá tính riêng và Kiyoshi cũng không phải là ngoại lệ. Cậu có thể đột nhiên vui vẻ nhờ vị dễ chịu của kem đánh răng hoặc bất chợt tỏ ra khó chịu khi cửa hàng yêu thích đổi tông màu khăn trải bàn. Tâm trạng bực bội của cậu thường kéo dài trong vài ngày. Nói cho đúng cậu không phải là một chàng trai dễ gần. Tôi đã quen với tính khí nghệ sĩ đồng bóng thất thường ấy, nhưng tật xấu này giờ đây còn tồi tệ hơn trước. Kiyoshi lừ đừ như con voi sắp ૮ɦếƭ khi bước vào gian bếp hay nhà vệ sinh. Thậm chí khi gặp khách hàng, trông cậu cũng chẳng khá lên tí nào. Bình thường với tôi cậu rất bỗ bã và có phần hơi xấc xược, nhưng bây giờ thì không như vậy. Nói thật, tôi lại khoái như trước hơn.
Kiyoshi và tôi gặp nhau năm ngoái, kể từ đó hễ rảnh là tôi lại đến lớp học chiêm tinh của cậu. Tôi giúp những việc vặt khi có sinh viên và khách hàng ghé thăm văn phòng. Một hôm, bà Iida đến chơi và nói thẳng rằng cha của bà có dính líu đến vụ án mạng hoàng đạo nổi tiếng. Bà đưa cho chúng tôi một bằng chứng mà rõ ràng chưa ai từng thấy bao giờ, và nói đại ý rằng với bằng chứng này chúng tôi có thể phá được vụ án. Kiyoshi không nổi tiếng mặc dù được người trong giới rất tôn trọng. Việc người phụ nữ tin tưởng giao cho cậu ấy bằng chứng đáng giá như vậy khiến tôi thêm nể trọng Kiyoshi. Tôi cảm thấy hãnh diện khi được kết giao với cậu.
Tôi đã mất một thời gian dài suy ngẫm về vụ án này nên nhanh chóng nhớ ra toàn bộ sự việc. Trái lại, Kiyoshi chẳng hề biết gì về vụ án, mặc dù cậu là một chiêm tinh gia. Tôi đã phải lục tìm cuốn Tokyo hoàng đạo án trên giá sách của mình, phủi sạch bụi và giải thích mọi chuyện cho cậu.
“Vậy anh cho rằng, Heikichi Umezawa tác giả của những ghi chép này đã bị giết đúng không?” Kiyoshi hỏi, vẫn nằm dài trên ghế.
“Đúng. Anh sẽ tìm thấy các chi tiết trong phần thứ hai của cuốn sách.”
“Tôi thấy mệt. Kiểu chữ nhỏ xíu này báo hại mắt tôi.”
“Ờ, thôi nào, đừng cằn nhằn nữa.”
“Thế anh không thể tóm tắt cho tôi được à?”
“Cũng được. Tôi nghĩ là trước tiên anh muốn nghe qua về những vụ án phải không?”
“Đúng vậy.”
“Sẵn sàng chưa?”
“Cứ bắt đầu đi thôi…”
“Tốt, cái gọi là Tokyo hoàng đạo án thực chất gồm ba vụ án riêng biệt. Vụ thứ nhất là cái ૮ɦếƭ của Heikichi Umezawa, vụ thứ hai là cái ૮ɦếƭ của Kazue Kanemoto, con riêng vợ ông ấy và vụ thứ ba là các án mạng Azoth. Người ta tìm thấy xác Heikichi trong xưởng vẽ của ông vào ngày 26 tháng Hai năm 1936. Ngày tháng trên bản ghi chép kỳ quái kia là năm ngày trước cái ૮ɦếƭ của nạn nhận. Nó được tìm thấy trong ngăn kéo bàn làm việc của Heikichi.”
“Kazue bị giết tại nhà riêng ở Kaminoge, khu Setagaya, cách khá xa nhà Umezawa và xưởng vẽ của Heikichi ở Ohara, khu Meguro. Cô ấy bị hãm hiếp, nên có thể suy luận rằng kẻ sát nhân là đàn ông, và có khả năng là một tên trộm. Trùng hợp ngẫu nhiên là Kazue bị giết cùng một thời gian với Umezawa và những người khác.”
“Ngay sau cái ૮ɦếƭ của Kazue, vụ *** hàng loạt xảy ra, giống như được nêu trong ghi chép của Heikichi. Mặc dù vậy, các nạn nhân không bị giết theo thứ tự lần lượt mà tất cả bị giết cùng một lúc. Có lẽ gia đình Umezawa đã bị trù ếm. Mà này, ngày 26 tháng Hai năm 1936 có gợi cho anh điều gì không?”
Kiyoshi đáp gọn: “Sự kiện 26 tháng Hai.”
“Đúng vậy,” tôi nói. “Tôi rất ấn tượng với kiến thức của anh về lịch sử Nhật Bản! Cái ૮ɦếƭ của Heikichi xảy ra đúng ngày đó. Ờ, cuốn sách đã nói gì nhỉ? Chậc, hay đấy. Nhân tiện, ta hãy xem gia phả nhà họ, cùng tuổi của mỗi người được tính đến ngày hôm đó, 26 tháng Hai năm 1936.”
“Có cả thông tin về nhóm máu của họ nữa cơ à?” Kiyoshi hỏi.
“Phải, có cả nhóm máu nữa. Thông tin trong bản ghi chép đều đúng và chính xác. Nhưng Heikichi không đả động gì đến ông Yoshio, em trai ông ấy, cho nên tôi sẽ kể anh nghe về người này. Yoshio là một cây viết chuyên luận cho các tạp chí du lịch, tiểu thuyết dài kỳ cho các báo, phóng sự v.v… Khi anh trai bị giết, ông ấy đang ở phía đông bắc của Tohoku, đang đi lấy tin để viết báo. Chứng cứ ngoại phạm của ông ấy đã được xác minh, nhưng cũng đáng để xem xét. Mà thôi, chúng ta sẽ trở lại vấn đề Yoshio sau.”
“Tiếp theo là Masako, vợ thứ hai của Heikichi. Tên thời con gái của bà ấy là Hirata. Bà xuất thân trong một gia đình giàu có ở Aizu-thichtruyenmatsu. Cuộc hôn nhân đầu tiên của bà với Satoshi Murakami, giám đốc một công ty xuất nhập khẩu, là do sự sắp đặt của hai bên gia đình. Họ có với nhau ba người con là Kazue, Tomoko và Akiko.”
“Tôi biết,” Kiyoshi nói. “Còn Heitaro Tomita thì sao?”
“Vào thời điểm xảy ra vụ án, anh ta 26 tuổi, chưa lập gia đình và đang phụ giúp mẹ ở xưởng tranh de Médicis. Nếu Heikichi đúng là bố đẻ của anh ta thì chắc chắn ông ấy phải sinh ra Heitaro năm 22 tuổi.”
“Thế nhóm máu có xác định được huyết thống giữa Heikichi và Heitaro không nhỉ?”
“Trường hợp này thì không. Heitaro và mẹ cùng mang nhóm máu O, Heikichi nhóm máu A.”
“Hiện chúng ta biết Heikichi và Yasue, mẹ của Heitaro, đã chia tay ở Tokyo và sau đó gặp lại nhau. Họ gặp nhau vào năm 1936 đúng không nhỉ?”
“Chắc chắn như vậy,” tôi trả lời. “Khi Heikichi có hẹn ở ngoài thì thường chính là đi gặp Yasue. Có vẻ ông tin tưởng bà này vì họ cùng chung sở thích nghệ thuật. Heikichi không gần gũi với Masako hay các con riêng của mình theo kiểu đấy.”
“Vậy thì tại sao ông ấy lại kết hôn với Masako? Mà này, Masako và Yasue có hòa thuận không?”
“Tôi nghĩ là không. Có thể họ vẫn chào hỏi xã giao, nhưng Yasue hiếm khi sang nhà chính mỗi lần tới thăm Heikichi. Ông ta thường ở trong xưởng vẽ của mình. Như thế Yasue có thể dễ dàng đến thăm Heikichi mà không ai biết cả. Có thể Heikichi vẫn còn yêu Yasue. Ông kết hôn với Tae vì cô đơn sau cái ૮ɦếƭ của bà mẹ. Rồi vướng vào mối quan hệ với Masako - ừ, ‘vướng’ có lẽ là từ chính xác để giải thích cho tình cảnh của ông ta.”
“Vậy, có thể hiểu là Yasue và Masako không bao giờ cùng một phe…”
“Đúng thế.”
“Heikichi có gặp Tae sau khi họ ly hôn không?”
“Chưa bao giờ. Nhưng cô con gái Tokiko của họ thì thường xuyên đến thăm Tae ở Hoya. Cô lo lắng cho Tae, bà này có một cửa hàng nhỏ bán TL.”
“Heikichi đúng là người lạnh lùng nhỉ?”
“Chậc, Heikichi không bao giờ đến thăm Tae, ngược lại Tae cũng vậy.”
“Tae và Masako cũng không hợp nhau đúng không?”
“Tất nhiên là không rồi. Masako đã ςướק chồng của Tae. Chắc chắn Tae căm ghét bà ta. Đó là bản chất của phụ nữ mà.”
“Kazumi à, anh nói như thể anh hiểu hết tâm lý của phụ nữ ấy!”
“Cái gì?... Không phải đâu!” Tôi làu bàu.
“Nhưng nếu Tokiko quan tâm đến mẹ đẻ thì tại sao cô ấy lại vẫn ở với nhà Umezawa? Cô ấy có thể đến sống với Tae cơ mà?”
“Tôi không biết. Tôi không phải là chuyên gia về tâm lý phụ nữ!”
“Thế còn bà Ayako, vợ của Yoshio? Bà ấy có thân thiết với Masako không?”
“Họ cũng khá hợp nhau.”
“Sao Ayako gửi hai con gái mình đến sống với Masako, nhưng chính bà ấy lại không dọn về đó ở nhỉ?”
“Biết đâu giữa mẹ con họ có mâu thuẫn.”
“Quay trở lại với Heitaro con trai Yasue. Cậu bé và ông bố Heikichi có thường xuyên gặp nhau không?”
“Tôi không biết. Cuốn sổ cũng chẳng nhắc gì đến thông tin này cả. Heikichi thường đến phòng trưng bày de Médicis ở Ginza nên chắc chắn ông ta có gặp Heitaro đôi lần. Có lẽ cha con họ khá thân thiết với nhau.”
“Hừm. Lối sống lập dị của Heikichi - vốn dĩ khá xa lạ với giới họa sĩ - chắc chắn tạo ra những mối quan hệ phức tạp.”
“Đúng vậy,” tôi nói. “Một bài học tốt về đạo đức cho anh, phải không?”
“Bài học gì?” Kiyoshi hỏi, không để ý tới sắc thái châm chọc của tôi. “Tôi có ý thức sâu sắc về đối nhân xử thế hơn ông ta nhiều, ít nhất cũng đủ để dạy lại người khác. Chúng ta cùng xem các chi tiết về vụ án của Heikichi Umezawa nhé.”
“Chắc chắn rồi. Tôi là chuyên gia về chuyện đó mà.”
“Thật á?” Kiyoshi cười toét miệng.
“Ừ. Tôi thuộc lòng mọi chuyện và có thể giúp anh viết thành sách ấy chứ, nhưng nhớ là phải thiết kế các tranh thật đẹp đấy nhé.”
Kiyoshi ngáp dài. “Ôi, ước gì tôi không phải nghe bài thuyết giảng nhàm chán của anh nữa, nhưng thôi cứ tiếp tục, anh nói tiếp đi…”
Theo dõi page để cập nhật truyện hay

Thử đọc