Bánh Mì Thơm Cà Phê Đắng - Chương 05

Tác giả: Ngô Thị Giáng Uyên

XÚC XÍCH NƯỚNG, YAOURT MẬT ONG VÀ HƠN NỮA… Mới đây, một chị bạn tôi hỏi "Nghe nói ở Anh ăn dở mà khổ lắm phải không em? Bạn chị kể qua đó thấy có mấy đứa sinh viên ngày nào cũng gặm bánh sandwich trên bãi cỏ trường đại học vào giờ trưa, nhìn cô đơn lắm".
Của đáng tội, món ăn Anh cũng không đến nỗi dở như người ta thường đồn đại, một phần cũng vì vật giá đắt đỏ quá, cũng chừng đó tiền qua Pháp hay Ý tha hồ ăn uống phủ phê còn ở Anh chỉ ăn được lát pizza hay cái sandwich thôi. Những ngày đi học ở Anh, sáng sáng tôi cho bánh làm sẵn mua ở siêu thị (không chút “khởi sắc” về mặt mùi vị ẩm thực) vào nấu trong lò viba, thêm trái chuối- có khi thay bằng trái cam, mận vàng, chùm dâu hay trái đào- và chai nước, rồi buổi trưa sau giờ học ngồi dựa vào gốc cây trong khuôn viên trường mà ăn chung với đám bạn. Sau khi hoàn tất bằng cao học căng thẳng, tôi hớn hở tuyên bố “Đã tới giờ của Lọ Lem”, rồi một tuần lễ sau bắt đầu chuyến chu du ẩm thực xuyên Châu u để ăn uống cho bõ những ngày cực khổ.
Stockholm Du khách trước khi đến Thụy Điển đều vẽ ra trong đầu hình ảnh những người cao lớn tóc vàng mắt xanh, ngồi trong nhà hàng trang trí bằng đồ nội thất của IKEA trong tiếng nhạc ABBA, trò chuyện bằng điện thoại Sony Ericsson và chỉ ăn ba món thịt băm viên, cá trích ngâm dấm và khoai tây luộc. Nhưng đó chỉ là những khuôn mẫu người ta thường đồn đại vì quả sai lầm khi nghĩ rằng món ăn của đất nước lớn nhất vùng Scandinavia này đơn điệu và thiếu phong cách riêng.
Tôi được ăn tô súp ngon nhất Châu u trong chợ Ostermalmhallen, một khu chợ lớn có mái vòm ở Stockholm, bán đầy những thức ăn địa phương mới nấu.
Hành trình tìm đến chợ này rất "gian truân" vì cả tôi và ông bạn người Anh Alastair đi cùng đều dở xác định phương hướng, đi lòng vòng một hồi bị lạc tới nhà hát thành phố, bên trong có nhà hàng Operakällaren được xem là nơi xa xỉ vào bậc nhất Thụy Điển. Chúng tôi ngồi nghỉ chân trên ghế bên ngoài, bụng đói meo, và vì đã quyết tâm ăn bằng được món súp hải sản ở chợ mà một tờ báo ở Anh đã giới thiệu nên bây giờ có ăn ngọc ăn vàng, ăn trứng cá caviar hay nem công chả phượng cũng không ngon.
Cuối cùng chúng tôi cũng lò dò đến được khu chợ như mong mỏi. Đến nơi đúng giờ cơm trưa, dân văn phòng túa ra ăn nhiều như nấm, đứng trước chúng tôi là vài chục người mặc đồ vét lịch sự đang kiên nhẫn xếp hàng. Hải sản là món ăn chính ở vùng Scandinavia- nơi cung cấp hải sản lớn nhất Châu u- nên tô súp của tôi rất "thịnh soạn", hơi giống súp bouillabasse của Pháp nhưng ngon hơn nhiều so với món súp ở Paris tôi từng ăn, có lẽ một phần khi chờ tới lượt tôi đã đói gần xỉu. Tô súp đầy những sớ cá biển Baltic được gỡ thịt trắng phau ngon dai, tôm bóc vỏ đỏ au chắc nịch, mực giòn sần sật, thỉnh thoảng lại lẫn vào những con hàu tươi rói núc ních thịt mọng nước. Nước súp được làm toàn bằng hải sản nguyên chất, thêm cà chua bằm nhuyễn đỏ au nên ngon đậm đà, trên lại phủ một lớp kem tươi mỏng làm tăng thêm vị béo ngầy ngậy. Còn bánh mì ở đây làm bằng lúa mạch (nên chắc phải gọi là bánh mạch chăng?) không biết nướng lúc nào mà giòn tan, phết bơ lên trên ăn kèm súp không gì bằng. Xung quanh tôi, dân văn phòng cũng đang xì xụp húp món đặc sản này trên những chiếc bàn trải khăn kẻ carô. Cạnh tôi, Alastair ăn món lutefisk truyền thống Thụy Điển, trên đĩa là khoanh cá tuyết lớn phủ sốt trắng đặc như kem, ăn kèm khoai tây nghiền và thịt băm viên. Trước khi nấu, cá tuyết được ngâm nước lạnh từ năm đến sáu ngày, sau đó nhúng vào dung dịch nước hòa tro từ cây linh sam (đúng là "phú quý sinh lễ nghĩa") trong vòng hai ngày để miếng cá phồng lên lớn gấp rưỡi ban đầu, sau đó ngâm nước lạnh thêm hai ngày nữa trước khi nấu bằng cách hấp rồi bỏ lò.
Được ăn ngon, chúng tôi tươi tỉnh trở lại và đi dạo một vòng quanh khu chợ, nơi có nhiều quầy bán rau quả tươi Bắc u: việt quất mọng nước, quả lý chua, dâu tươi đỏ thắm, bắp cải tím xanh xếp thành lớp đẹp như những bông hoa khổng lồ…, và đặc biệt nhất là nấm vàng Scandinavia.
Những tai nấm mỡ màng, hơi giống nấm mối nhưng màu vàng mướt trông mập mạp ngon lành không thể tả, dễ làm ta tưởng tượng tới những khu rừng cổ tích có nấm mọc dưới gốc cây sồi già, nơi những cô bé mặc áo đầm hoa xinh xắn rủ nhau đi hái nấm đựng trong lẵng đan bằng cây liễu.
Ngày cuối cùng, sau một buổi đi bộ mỏi chân quanh khu phố cổ Gamla Stan muôn màu, chúng tôi ghé vào Chokladkoppen (tiếng Thụy Điển nghĩa là “cốc sôcôla”), quán nhỏ trong tòa nhà xưa Stockholm sơn màu vàng cam, những ô cửa sổ vuông vắn và đầu hồi uốn lượn. Bắc u lạnh hơn nhiều so với những nước khác nên chúng tôi không ngồi ngoài quảng trường Stortorget mà vào trong căn phòng nhỏ bé và ấm cúng, sực nức mùi bánh quy bơ mới nướng và hạt cà phê rang. Bên trong có cả một bếp nhỏ bày những tô đựng đầy cam chín cây, trên bàn khách là những đế đựng nến bao bọc lớp sáp nến dày từ những lần thắp trước. Chúng tôi uống sôcôla nóng trong những cốc dày, nhấm nháp semlor, loại bánh có từ thế kỷ 16 tròn múp míp làm bằng bột mì pha hương bạch đậu khấu, chính giữa xẻ ra nhét bơ hạnh nhân và lớp kem tươi dày, mịn màng béo ngậy, trên rắc lớp đường vani li ti. Bánh ăn theo kiểu truyền thống sẽ để trong một đĩa sữa tươi còn âm ấm ăn cùng, nhưng tôi ăn không kèm sữa để thưởng thức được vị ngon rất riêng. Dù bánh rất ngon, tôi cũng không dám ăn nhiều vì vừa mới đọc được câu chuyện về vua Thụy Điển Adolf Fredrik ૮ɦếƭ năm 1771 sau khi ăn quá nhiều semlor cuối bữa dạ tiệc linh đình.
Tôi chia tay một tuần lễ giá lạnh trên bán đảo Scandinavia để về với nắng Địa Trung Hải bằng chuyến bay Thụy Điển- Hi Lạp trên chuyến bay của hãng hàng không có cái tên khá ngộ: Bông tuyết (Snowflake) *. Ẩm thực của "quê hương thần thoại, thuở hồng hoang đã thấy, đã xanh ngời liêu trai" cũng khác hẳn Thụy Điển như chính khí hậu hai vùng ở hai đầu Châu u này.
Bạn tôi đón tôi từ sân bay và chở thẳng đến trung tâm Athens, vào một hàng bán souvlaki để bếp bên ngoài, thịt nướng xèo xèo tỏa mùi thơm khó cầm lòng được. Souvlaki gồm thịt heo hoặc thịt gà, tuần tự một miếng nạc một miếng mỡ xắt quân cờ, xiên que nướng trên than hồng rực, khi ăn kẹp trong bánh pita (bánh mì ổ dẹp Hi Lạp, nay đã thành món bánh đại chúng trên khắp thế giới) chung với rau ngâm dấm. Hãy tạm quên cholesterol khi bạn đang ăn món này, cứ thưởng thức "đã đời" món thịt nướng ướp cỏ xạ hương và bia, thoảng mùi khói như níu bước chân rồi chịu khó về tập thể dục vậy! Nếu không muốn ăn với bánh pita, có thể xiên thịt xen kẽ với các loại củ quả trước khi nướng, rồi chấm với xốt tzatziki làm từ yaourt, dưa leo xay nhuyễn và nước ép tỏi. Trên khắp Hi Lạp đâu đâu cũng thấy những quầy bán souvlaki thơm phưng phức kiểu này, chả trách người Hi Lạp phần đông "tròn trịa" hơn những người láng giềng Châu u khác.
Hi Lạp Tôi ở Hi Lạp hai tuần với gia đình bạn trên đảo Evia, một kỳ nghỉ mát "chân chính" sau những giờ làm luận văn căng thẳng. Ở đây, tôi học cách làm món rau trộn kiểu Hi Lạp, với dưa leo và hành tây tím xắt khoanh trộn dầu ôliu extra virgin địa phương, rưới vài trái ôliu đúng nghĩa nhà trồng được, hái từ khoảng sân sau nhà, thêm những miếng vuông phô mai feta nhìn hơi giống miếng đậu phụ nhưng mùi thơm nồng. Tôi cũng học cách làm món ăn truyền thống moussaka (đặc trưng như phở với người Việt vậy) gồm những lớp cà tím thái lát, thịt bò bằm nhuyễn, hành, bơ, trứng, sữa, phô mai và gia vị đem bỏ lò, khi ăn mềm và dai khá giống món lasagna thịt bằm của Ý.
Ẩm thực Hi Lạp không thanh cảnh, tinh tế như những nước khác mà rất thịnh soạn, thường những bữa ăn tối luôn kèm theo pilafi, món gạo nấu bông lên ninh nhỏ lửa với bơ, gia vị và nước luộc gà; và không thể thiếu chai bia tươi Mythos (nghĩa là "thần thoại" trong tiếng địa phương, tiếng Anh myth cũng bắt nguồn từ tiếng Hi lạp) làm ta chếnh choáng trong khi chén đẫy những món ngon lành.
yaourt mật ong Hi Lạp Còn món tráng miệng, ôi tôi ૮ɦếƭ mê ૮ɦếƭ mệt món tráng miệng "quốc túy" Hi Lạp với yaourt ăn kèm mật ong.
Yaourt ở đây không ngọt, được làm từ sữa cừu nguyên chất không qua chế biến, đặc và dẻo quánh như kem trong miệng, rưới mật ong mới mua ở chợ về trong hũ còn nguyên tổ ong sáp. Tôi sáng chế thêm cách cho miếng nhỏ tổ ong vào ăn kèm, ngon lịm người. Sau này về Việt Nam, tôi cũng có dịp ăn lại món yaourt mật ong kiểu này trong một quán ăn ở Sa Pa sương mù cũng ngon không kém, có điều tổ ong kiếm đỏ mắt không ra nên đành rưới mật ăn tạm vậy.
Mật ong là đặc sản Hi Lạp từ những cánh rừng Địa Trung Hải ấm áp nên ở đây có nhiều món tráng miệng khác từ mật ong. Trong đó phải kể tới món loukoumades có từ thời Hi Lạp cổ đại- được trao tặng cho những vận động viên giành chiến thắng tại các cuộc thi đấu cách đây vài ngàn năm- món bánh nhẹ như lông hồng theo đúng nghĩa đen được chiên ngập trong dầu ô liu cho tới khi ngả màu vàng nâu rồi vớt ra nhúng vào mật ong sôi lục bục.
Đức Tôi rời Hi Lạp nặng thêm ít nhất 2kg so với lúc đến, nhưng thở dài nghĩ bụng chắc không tài nào ăn kiêng nổi khi qua Đức, lại đúng Munich, vốn ăn uống linh đình hơn những vùng khác ở đất nước xứ Alps này. Quả vậy, bữa ăn tối đầu tiên của tôi là một thiên đường protein với thịt heo quay da giòn tan vàng ruộm, ăn kèm bắp cải bào sợi muối chua đặc trưng Đức và bánh knodel làm từ khoai tây và vỏ bánh mì nghiền, khá giống dim sum của Hong Kong nhưng lớn hơn nhiều, tròn quay và vàng nhạt, kèm vại bia tươi mát lạnh nổi tiếng thế giới. Tôi có đọc đâu đó câu nói dân Munich bào chữa cho việc ăn nhiều và uống bia như hũ chìm của mình: Ăn nhiều khát nước phải uống, uống xong rồi... đói bụng phải ăn.
Vì vậy, hôm sau lúc đang rảo bước trên một đoạn đường nhỏ gần nhà ga trung tâm, bắt gặp một nhà hàng Thái nhỏ xinh có cô gái da ngăm đen đứng đảo mì trong chảo, tôi quyết định "phá lệ" vào ăn món Thái. (Trước đây tôi luôn tâm niệm đi tới đâu phải ăn món đặc sản địa phương nước đó nhưng lúc này tôi đang cần những thứ thanh đạm để bù lại bữa tối béo ngậy hôm qua). Trong khi húp tom yam, tôi giật mình nghe tiếng hát Quang Linh vang lên trong chiếc loa gần chỗ tôi ngồi. Nhìn quanh quất, tôi nhận ra trên tường treo bức tranh Việt Nam hình mẹ đang nằm võng cho con Pu', còn sau lưng tôi, anh chàng phục vụ và cô gái da ngăm đen đứng đảo mì lúc nãy đang trò chuyện bằng tiếng Sài Gòn chính hiệu mà nãy giờ tôi không để ý. Tôi hỏi bằng tiếng Việt "Ủa, quán này của người Việt hả?", cả hai quay lại nhìn tôi, mắt tròn mắt dẹt. Thì ra nãy giờ họ tưởng tôi là người Thái.
Cả hai lại bàn bắt chuyện với tôi, rồi hỏi "Có phải bạn ở Anh qua du lịch?", tôi phục sát đất, hỏi lại "Sao biết hay vậy?". Anh chàng nọ chỉ vào những chiếc túi đựng xúc xích và thịt xông khói nặng trĩu tôi mới đi mua sắm từ chợ Virtualienmarkt về đặt cạnh bên: "Chỉ có dân ở Anh qua mới xài sang vậy thôi. Munchen là mắc nhất Đức rồi đó, đồ ở chợ này toàn là đồ tươi, "chất lượng", bình thường tụi này toàn ăn đồ siêu thị cho rẻ không hà". A, một khám phá khá ngộ đó chứ! Hai người bạn mới quen đãi đồng hương là tôi một ly bia vàng óng đặc sản Munich to "vật vã" ăn kèm với đồ ăn Thái của…Việt kiều Đức, vậy là đi tong dự định ăn uống thanh đạm.
Xúc xích Munich Tôi còn quay lại ủng hộ nhà hàng Thái này một lần nữa, trước khi bắt đầu hành trình khám phá các loại xúc xích Đức nổi tiếng thế giới. Có vẻ như đó là một dự định khá "tham vọng", vì Đức có hơn 1.500 chủng loại xúc xích khác nhau, mỗi loại một vẻ. Do đó tôi dừng chân lại với lựa chọn kinh điển- xúc xích trắng Weiswurste, được mệnh danh là "nữ hoàng xúc xích xứ Bavaria", bọc một lớp ruột non mỏng bên ngoài, nướng lửa than chấm tương mustard cay nồng ăn kèm bánh xoắn Pretzel to gần bằng đầu người.
Cầm lòng không được, dù no tôi vẫn gọi thêm một góc lớn đặc sản Blackforest gateau: bánh sôcôla xốp phủ kem dày, trên rải những trái anh đào tươi chín mọng, làm món tráng miệng.
Sau bữa tối ăn tối cuối cùng ở Đức ấy, tôi đi dạo một vòng quanh thành phố hít thở không khí mát dịu, chợt nghe tiếng hát Chris Martin của ban nhạc Coldplay vang lên từ ngôi nhà trong một con phố nhỏ khuất nẻo:
In my place, in my place Were lines that I couldn\'t change I was lost, oh yeah I was lost, I was lost Crossed lines I shouldn\'t have crossed I was lost, oh yeah Tôi đứng tựa vào bức tường đá bên ngoài ngôi nhà nọ, tự nhiên muốn ứa nước mắt. Lạy trời, lúc đó tôi mới nhận ra "Giang hồ ta chỉ giang hồ vặt, nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà". Đất nước xa xôi vùng núi xứ Alps này không có tiếng cơm sôi, nhưng bài "In my place" (Ở nơi chốn của tôi) vẳng ra từ căn nhà nhỏ có lò sưởi ấm áp kia làm tôi chợt nhận ra tôi muốn về nhà quá. Đã khá lâu tôi không được ăn đồ mẹ nấu, bảy tháng gần đây lại không ăn hột cơm nào...
Tôi ra tiệm Internet gửi mail cho mẹ: "Ngày mai con về Anh lại để chuẩn bị đồ đạc. Tuần sau con về Việt Nam với mẹ luôn"...
10.Ăn Ý Ai cũng thích uống cappuccino ăn kèm bánh tiramisu ở một quán cà phê trên cầu gỗ TTCN - Ẩm thực những vùng khác nhau ở Ý rất dễ phân biệt. Ở miền bắc (Milan, Venice, Bologna, Turin...) thức ăn có xu hướng dẻo như kem và béo hơn, trong khi dân địa phương miền trung (Florence, Perugia, Siena...) dùng rất nhiều dầu ôliu và rau thơm, thức ăn cũng đơn giản, thanh đạm và tươi hơn. Càng về phía nam (Rome, Naples, Catanzaro...), những món ăn Ý càng nóng và cay hơn...
Còn cà phê Ý? Caffè latte là một phiên bản rất giống café au lait của Pháp, cũng sữa nóng đầy ắp những tách lớn, pha ít cà phê đen. Nâng tách lên, khói nghi ngút phả lên mặt khiến tỉnh cả người, rất hợp để trị “hangover” (chứng nhức đầu sau khi uống nhiều thức uống có cồn).
Còn espresso là một thức uống tao nhã, trong một tách nhỏ xíu như chung uống trà của những cụ già VN hay Trung Hoa. Trong tách sóng sánh cà phê đen với lớp bọt mỏng li ti nâu vàng, thơm ngào ngạt, uống muỗng đầu tiên những ai không quen dễ nhăn mặt vì vị đắng đọng lại trong cổ họng, nhưng đến khi hết tách, mùi cà phê thơm lừng còn thoảng qua rất dễ ghiền.
Nhưng có lẽ “quốc hồn quốc túy” của nước Ý vẫn là cà phê cappuccino có mặt ở hàng trăm nước trên thế giới. Khó ai từ chối lời mời đi uống cappuccino ở một trong những quán cà phê vỉa hè ở Ý, có hoa tươi mọc trên cửa sổ, bên một trong những con kênh êm đềm với những ngôi nhà xưa nghiêng mình. Ở đó, thật “đã” khi nhấm nháp tách cappuccino sủi bọt dày, rắc quế xay li ti màu nâu trên mặt, hớp lớp bọt nhuyễn mịn và béo như kem kèm nước cà phê nóng thơm và hơi đắng bên dưới, ăn kèm bánh tiramisu màu nâu sôcôla kẹp những lớp kem mỏng trắng muốt mịn màng.
Quảng cáo bánh mì xứ Verona bằng poster... cô gái Sài Gòn Trên đây chỉ là ba loại cà phê nổi tiếng nhất của Ý, nhưng nếu đã cất công đến nơi này, bạn nên thử những loại khác cũng không kém phần thú vị như caffè corretto có kèm vài giọt R*ợ*u cognac, caffè freddo bỏ đá lạnh gợi nhớ cà phê đá Sài Gòn, hay caffè d’or có ít cacao mà tôi có dịp uống trong một quán cà phê khuất gần quảng trường lớn ở Verona.
Trên đảo Murano cách trung tâm thành phố Venice nửa giờ đi phà, tôi được thưởng thức món bánh pizza vừa ra lò nóng bỏng tay. Rìa bánh giòn tan nhưng chính giữa lại mềm và dẻo nhờ lớp phó mát tươi, trên phủ những miếng thịt pepperoni đỏ au và mấy trái ôliu xắt lát mỏng. Ăn món này đúng kiểu Ý không phải trong một nhà hàng sang trọng mà phải ngồi bệt xuống chân một trong những cây cầu giữa trời nắng chang chang, gặm pizza gói trong một lớp giấy nâu. Cũng như ăn ốc luộc chấm mắm gừng đúng điệu ở Hà Nội phải ngồi vỉa hè trong con hẻm đầy gió thổi hun hút lạnh lẽo vậy.
Một nhà hàng Ý (trattoria) ở Venice với những ô cửa đầy hoa Nhưng bữa hải sản ở một nhà hàng gần ga Santa Lucia ở Venice thì chỉ có thể miêu tả bằng một từ: hoàn hảo. Hai bên cầu đầy những nhà hàng Ý (ristorante hoặc trattoria) với bàn ghế kê sát con kênh nước chảy loang loáng trong ráng chiều, đầy dân địa phương tóc xoăn tít và ngoại hình rất Ý đang cười nói ồn ào.
Nhà hàng không hề có thực đơn, khách vào không có chọn lựa nào hết vì ai cũng được dọn lên những món như nhau, món nào cũng ngon ૮ɦếƭ mê ૮ɦếƭ mệt. Nào sò tươi rói trộn thịt heo băm nhuyễn và rau thơm, nhồi trong vỏ sò xanh to bằng ba ngón tay. Nào bạch tuộc kho đẫm cà chua tươi đỏ.
Nào tôm và mực nang bọc bột chiên giòn.
Tôi thích nhất món gỏi cá nướng than thoảng mùi khói, xé nhỏ trộn thứ nước xốt từ chanh, cà chua và kem. Tất cả được ăn kèm với món bánh polenta vàng ruộm làm từ bắp tươi xay nhuyễn trộn bơ và những thứ gia vị chỉ người Ý mới biết, vừa thơm vừa dẻo, nhấm nháp với R*ợ*u vang trắng thật ngon lành. Bữa ăn hết 50 euro cho hai người, có lẽ là phần “xa xỉ” nhất trong suốt chuyến đi đối với túi tiền sinh viên hạn hẹp của chúng tôi, nhưng thật đáng và “có lý” hơn nhiều so với những menu turistico (thực đơn cho khách du lịch) của những nhà hàng gần quảng trường Thánh Marco.
Linguine (1 dạng pasta) Đến Verona cổ kính, nổi tiếng với chuyện tình Romeo và Juliet, buổi tối đầu tiên tôi và ba người bạn sinh viên mới quen ở cùng nhà trọ thanh niên rủ nhau ra quảng trường thành phố, vào một quán ăn đông kín người. Cả ba bạn mới đến Ý ngày đầu tiên nên chọn ngay món pizza, riêng tôi gọi món linguine trộn tôm. Ngồi chờ dài cổ, uống hết mấy ly nước đĩa linguine mới được dọn ra, nhưng khi ăn miếng đầu tiên, tôi tha thứ cho sự chậm trễ ấy ngay lập tức! Đĩa linguine rải những cọng mì vàng nhạt, tươi rói, sần sật trong miệng, thoảng nhẹ mùi trứng, ăn kèm tôm bóc vỏ hồng nhạt trộn xốt và rắc zucchini xanh xắt sợi. Có lẽ đó là món mì Ý ngon nhất tôi từng được ăn trong đời.
Có lẽ sẽ là thiếu sót rất lớn nếu viết về ẩm thực Ý mà quên nhắc đến gelato - món kem Ý béo ngậy, lạnh buốt răng có mặt khắp năm châu. Khách du lịch đến đây ăn kem que nhiều đến nỗi một số cửa hàng bán đồ lưu niệm phải treo biển bên ngoài “Vui lòng không ăn kem khi vào đây”. Một tuần ở Ý, tôi ăn không biết bao nhiêu cây kem ốc quế trên những xe kem có mặt khắp nơi với hàng dãy kem đủ mùi vị: crema fiorentina, pistachio, vanilla... Cắn miếng ốc quế giòn tan kèm với lớp kem dày, béo ngậy, vị ngọt thanh còn đọng lại trong cổ lành lạnh thật hợp với những ngày tháng bảy ở Ý nóng bức.
Ở các nhà ga xe lửa Ý, bạn rất dễ thấy bảng thông báo những tuyến đường xuyên quốc gia với những cái tên tiếng Ý du dương và êm đềm: Torino - Milano - Vicenza - Venezia, Alessandria - Piacenza - Parma - Firenze, Genova - Pisa - Roma - Napoli...
Những cái tên ấy dễ gợi nhớ đến giải Series A với những ai mê bóng đá ngoại hạng Ý; riêng với những ai lỡ có “tâm hồn ăn uống”, những cái tên ấy lại dậy lên trong lòng ý muốn được thưởng thức những món ngon địa phương trong một trattoria hay ristorante có hoa tươi nở trên đầu vào một buổi chiều mùa hè nước Ý đầy nắng và gió.
Theo dõi page để cập nhật truyện hay